CLB Tuổi Trẻ Về Nguồn
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế

Go down

các quy định của diễn đàn Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế

Bài gửi by thientam13887 Tue May 24, 2011 9:33 pm

Phần 1: Giới thiệu về cuộc đời Thái Giám


Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế, kinh đô cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, trải qua những biến cố của lịch sử, câu chuyện về những thái giám triều Nguyễn lặng thầm như chính nghĩa trang lạnh ngắt nơi chùa Từ Hiếu.

Như những triều đại phong kiến khác, triều Nguyễn ở Việt Nam cũng tuyển chọn thái giám để giám sát đội ngũ phi tần, cung nữ, hoàng hậu, công chúa. Những người nam giới phục vụ trong cung phải chấp nhận thân phận “không đàn ông cũng chẳng đàn bà”.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, người bỏ nhiều công sức thu thập tài liệu lịch sử và viết sách về triều Nguyễn, việc tuyển chọn thái giám vào cung chủ yếu từ hai nguồn. Một là những cậu bé sinh ra đã không có bộ phận sinh dục nam giới (thái giám tự nhiên). Làng nào có cậu bé như vậy được xem như một điềm tốt, dành để tiến cử cho vua và cả làng đó sẽ được bổng lộc vua ban.

Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế Cca7c655c13e108331d22be72192739c1e6e2e377066b23fbdd4091ab86a0ca85g

Tuy nhiên, những đứa trẻ “bất lực bẩm sinh” thường khó phát hiện và không an toàn tuyệt đối nên việc tuyển chọn từ nguồn thứ hai khá phổ biến. Đó là những gia đình sinh con nhưng hoàn cảnh quá nghèo khổ, tự nguyện cho con làm thái giám sau khi đã trải qua đau đớn để loại bỏ bộ phận sinh dục nam. Từ đó, những người bình thường sẽ mang thân phận thái giám đến suốt đời.

Qua vòng tuyển chọn, những thái giám nhí được đưa vào cung để một thái giám có thâm niên dạy các nghi thức khắt khe của cung đình, từ việc đi đứng cho đến cách ăn mặc, bẩm, thưa... Có nhiều đứa trẻ mới lên 7 đã được đưa vào cung học phép tắc thái giám và sống trong cung cấm cho đến già.

Tuy là người để vua sai vặt nhưng trong lịch sử phong kiến Việt Nam có những thái giám được triều đình trọng dụng và nhờ có tài, họ nổi tiếng trong chuyện triều chính như Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832). Ông là công thần trụ cột của triều Nguyễn, nhà quân sự tài ba, không những giữ vững bờ cõi miền Nam mà còn phát huy uy lực với các nước láng giềng, tạo quan hệ buôn bán với người Tây ở Gia Định.

Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế C786f293aac8352f4f9e4c74c97a21ee91cc5b49103e5b1de92b794725a5fe3b5g
Án thờ tả quân Lê Văn Duyệt tại chùa Từ Hiếu

Tuy nhiên, sau khi ông mất, nhiều người ghen ghét đố kỵ đã dựa vào việc con nuôi của ông là Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn mà ông bị kết án 7 tội trảm, 2 tội xử giảo, một tội phát quân, cho san bằng và xiềng mộ. Mãi đến thời vua Tự Đức ông mới được phục hồi danh dự.

Thời vua Minh Mạng (1820-1841), nhằm tránh tình trạng thái giám nổi loạn chuyên quyền trước đó, vua đã ban hẳn một chiếu chỉ riêng dành cho thái giám. Họ chỉ chuyên việc hầu hạ, sai khiến, không được tham dự việc triều chính, không được phẩm hàm quan chức. Ai vi phạm phải trừng trị nặng, không khoan tha…
Từ đó công việc của thái giám chủ yếu để vua sai vặt và quan trọng nhất là làm liên lạc cho vua và các bà vợ trong việc “chăn gối”. Khi vua có ý ngủ với bà vợ nào thì thái giám sẽ nhận lệnh vua đến thông báo cho bà vợ đó. Việc tuy đơn giản nhưng thái giám phải tuyệt đối giữ bí mật để không xảy ra việc đố kỵ giữa các bà vợ.

Hàng đêm, thái giám lặng lẽ đến phòng bà vợ được vua chọn ngủ để hộ tống bà đến cung vua. Trong lúc vua và vợ ân ái, thái giám đứng canh gác. Khi cuộc vui đã tàn, thái giám lại hộ tống vợ vua về cung. Công việc trong đêm được các thái giám làm một cách lặng lẽ và mọi hoạt động trong cung cấm diễn ra bình thường vào sáng sớm hôm sau.

Theo nhà nghiên cứu Huế Hồ Tấn Phan, vào giai đoạn đầu triều nhà Nguyễn, mỗi triều đại thường có khoảng 200 thái giám. Con số này tùy thuộc vào sự hưng thịnh của từng triều vua. Thời vua Khải Định, công việc của thái giám có phần bận rộn bởi ông vua này mang tiếng “bất lực”, vua thường giao cho các thái giám chăm sóc 12 bà vợ của mình.

Đêm đến, thay vì đến phòng các bà vợ, vua lại lệnh cho các thái giám và đội nhạc trong cung đến hầu chuyện, chơi đàn cho vua nghe. Ngày ngày, vua có thói quen đi dạo, ngắm cảnh và bao giờ cũng có thái giám đi theo hầu chuyện.
Khi vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, chính thức lên ngôi, việc tuyển thái giám không còn nữa. Các thái giám được tuyển từ những đời vua trước đó sống ở trong cung chỉ lo việc quét dọn sân vườn, chơi cây cảnh chứ không phải lo việc “chăn gối” cho vua.

Khi về già hoặc đau ốm, các thái giám không được ở trong nội cung. Hết thời gian phục vụ, họ nhận lương của triều đình và chuyển ra ngoài hoàng thành, cư trú tại một căn nhà gọi là Cung giám viện. Để chống chọi lại sự cô quạnh, nhiều thái giám đã kết nghĩa anh em hoặc nhận con nuôi. Số khác chọn cách lấy vợ, do mất khả năng sinh con, họ lấy phụ nữ già để bầu bạn những tháng ngày cuối đời. Số ít thái giám may mắn hơn thì về quê sống với họ hàng.

Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế Dd03d207bbdc633fdbfb1eb7572b590c2f347c6a9c7c503fb7658ab82feb89dc5g


Một chỗ khá đặc biệt dành riêng cho các Thái Giám lúc đau ốm lui ra Hoàng Thành để yên nghỉ,đó là Cung Giám Viện ở góc đường Đặng Thái Thân và Đoàn Thị Điểm ngày nay.

Trong xã hội phong kiến, thái giám không thuộc về một giai cấp nào, gần như suốt đời chỉ ở trong cung cấm. Chính vì thế mà theo hai nhà nghiên cứu Huế, tên tuổi của thái giám triều Nguyễn ít khi được nhắc đến. Những sách sử viết về thái giám cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, trong đó chủ yếu viết bằng tiếng Pháp. Những gì của thái giám triều Nguyễn còn lại cho đến ngày nay chỉ là nghĩa trang tại chùa Từ Hiếu (xã Thủy Xuân, thành phố Huế).

Những thái giám trong hậu cung triều Nguyễn Ở Huế 5a346218c1fa159d2903affd16d982d71d82aeb323abb5d8857aeaf50c650f625g

Trong cuốn sách giới thiệu về chùa Từ Hiếu ghi rất rõ nguồn gốc việc thái giám được chôn cất tại đây. Lo lắng sự cô đơn nơi mộ phần khi nằm xuống, dưới thời vua Thiệu Trị (1807-1847), thái giám Châu Phước Năng đã đứng ra quyên tiền trùng tu chùa Từ Hiếu, ngôi chùa cổ cách thành phố Huế chừng 5 km, và chọn nơi đây làm nơi yên nghỉ. Từ đó, các thái giám đã công đức tại chùa sau khi chết được nhà chùa mai táng và cúng giỗ.

Trong khuôn viên nhà chùa, nghĩa trang thái giám nằm ở phía bên trái, cách chùa khoảng 30 m với diện tích gần 1.000 m2. 23 ngôi mộ được chôn theo 3 hàng, ở giữa có tấm bia khắc ghi công lao đóng góp của các thái giám.
Ngoài ngày giỗ chung do chùa Từ Hiếu tổ chức vào rằm tháng 11 hàng năm, khu nghĩa trang này vắng lặng không một bóng người qua lại. Cuộc đời của thái giám khi sống phải chịu thân phận hầu hạ trong bốn bức tường của hoàng cung thì khi "về trời” cũng phải chịu số kiếp cô đơn, lặng lẽ nơi bốn bức tường của nghĩa trang này.

Theo một sư cụ trong chùa, thỉnh thoảng có một vài người họ hàng của thái giám lên nghĩa trang thắp hương. Nhưng họ vội đến rồi lại vội về, mất hút dưới những tán cây. Dường như họ không muốn ai biết mình có bất cứ mối quan hệ nào với thái giám hay nghe ai hỏi về cuộc đời của những con người “sinh ra chẳng được mấy ai chấp nhận”.

Văn Nguyễn


Phần 2: Tìm hiểu thêm "Chuyện đời của các quan thái giám triều Nguyễn"
Những lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, sông Hương núi Ngự… Những phong tục, những món ăn dân dã, những sinh kế xưa tốt đẹp. Điệu Nam ai Nam bình có một không hai… Quá nhiều thứ để làm rạng danh đất thần kinh xưa – Cố đô Huế. Và cũng dễ lý giải khi ít ai lại để ý đến một nghĩa trang dành riêng cho các thái giám ở chùa Từ Hiếu, thuộc làng Dương Xuân Thượng, thị xã Hương Thủy (Thừa Thiên Huế). Nhỏ bé, trầm mặc nhưng thế mới đặc trưng đất Huế.

Phận nghiệp lạ kỳ

“Dẫu biết không có gì vĩnh cửu và sẽ đi vào quên lãng bởi thời gian. Dẫu biết mấy mươi năm bom đạn chiến tranh muôn phần tàn phá. Nhưng nhìn cảnh tượng 25 nấm mồ của các thái giám trơ trọi giữa hoang vắng rong rêu và ít người lai vãng, vẫn không khỏi chút chạnh lòng thầm trách hậu thế đã hững hờ…”.

Trong chế độ quân chủ phương Đông, lực lượng thái giám (còn gọi là hoạn quan) phục vụ trong cung nhiều hay ít, có được tham gia triều chính hay không sẽ phụ thuộc vào sự thịnh vượng của vương triều và đức vua. Vị anh hùng trong lịch sử chống ngoại xâm – danh tướng Lý Thường Kiệt – cũng là hoạn quan dưới ba triều vua Lý. Nhưng ông thuộc vào sự hiếm hoi của biến cố lịch sử. Giống như tất cả các triều đại phong kiến khác, triều Nguyễn tuyển chọn thái giám vào cung chỉ với công dụng giám sát và phục vụ đội ngũ cung phi, mỹ nữ vốn hùng hậu. Trong tam cung lục viện ở Đại nội thường có khoảng vài chục thái giám phục vụ.


Thái Giám triều Nguyễn
Giáp đoạn chớm tàn của các chế độ phong kiến phương Đông mà tiêu biểu là các triều phong kiến Trung Hoa, lợi dụng triều chính không nghiêm và sự gần gũi bằng kiểu ăn nói ton hót rỉ tai trong chốn thâm cung, các thái giám đã không ít lần nhiễu nhương chính sự, gây nhiều biến cố tai hại. Lấy đó làm bài học, vua Minh Mạng (nắm ngôi từ 1820 – 1841) đã ban một chỉ dụ về việc dụng thái giám: “Cho họ người nào việc ấy để sai khiến hầu hạ nhưng mãi mãi không cho dự vào giai và phẩm hàm quan chức. Vì chức vụ của họ là để nội đình sai khiến và truyền lệnh mà thôi. Tất cả triều chính và việc ngoài đều không được tham dự, kẻ nào vi phạm phải trừng trị nặng, không khoan tha. Trẫm đã dặn dò, hết sức mưu tính sâu xa cho đời sau…”. Chỉ dụ ấy nay vẫn còn lưu giữ toàn văn trên tấm bia đá tại Văn thánh trong Văn Miếu (Huế).

Chỉ dụ cũng chia thái giám thành 5 đẳng. Thấp nhất là thừa biện và cung phụng, hưởng bổng lộc của triều đình là 2 quan tiền và 2 phương gạo/tháng. Cao nhất là quảng vụ, được cấp 6 quan và 4 phương gạo. Các thái giám phải diện loại y phục riêng: mũ đội khác các quan triều, áo dài xanh bằng lụa cài hoa trước ngực. Các thái giám thường ăn ở, phục vụ trong Đại nội. Nhiều nhất là Tử Cấm thành. Họ vừa phục vụ vừa đảm trách việc quản lý các cung tần, mỹ nữ. Cả sắp xếp việc vua gặp một nàng nào đó khi vua chọn, rồi tỉ mỉ ghi chép lại, tránh sự nhầm lẫn về sau. Một số khác lên các lăng tẩm để phục vụ các bà cung phi góa bụa phải “ấp mộ” sau khi vua băng hà.

Vốn con rể của hoàng tộc, nhà Huế học Phan Thuận An là người am hiểu về triều Nguyễn thuộc vào hàng nhất nhì trong giới nghiên cứu. Theo ông, cần phân biệt hai loại thái giám: “giám lặt” và “giám sinh”. Giám lặt là những người đàn ông tự nguyện thiến “của quý” để vào cung. Giám sanh là không thể phân biệt được nam hay nữ, bẩm sinh đã không có bộ phận sinh dục. Ở làng nào có giám sanh ra đời thì phụ mẫu phải đem trình làng, rồi làng trình bộ. Bộ sẽ cắt cử người dạy dỗ theo nghi lễ cung cấm, để lớn lên vào cung làm thái giám. Đứa trẻ ấy được xưng danh là ông bộ. Làng mà có ông bộ coi như được phước to bởi khi ông bộ tiến cung thì làng sẽ được miễn thuế trong vòng 3 năm. Câu cửa miệng dân gian: “Vui như làng đẻ ông Bộ” cũng bởi nguyên do đó.

Các thái giám vốn phi nam, phi nữ nên đa phần đều có điệu bộ, kiểu ăn nói và tính cách khác người thường. Mấy dòng thơ của cụ Tôn Thất Lương khi trông thấy các thái giám làm việc cũng bộc tả điều này:

“Dâng hương đầu bạc bốn năm cô

Quét lá áo xanh ba bốn chú”

Các thái giám phục vụ trong Đại nội triều Nguyễn. Ảnh: TL

“An nghỉ” cũng chẳng giống ai

Một bộ phim của Trung Hoa có tựa đề Vị thái giám cuối cùng, với một đoạn tái hiện lại: Khi quân cách mạng tràn vào Tử Cấm thành (Bắc Kinh), các thái giám hoảng loạn chạy qua các cung điện. Không phải họ chạy trốn, mà chạy về nơi cất giữ cái thực khí của mình – cái mà họ đã lìa bỏ khi vào cung, rồi mang theo, để khi chết sẽ được toàn thây. Hàng trăm con người chen lấn để mong lấy lại được cái phần chứng tỏ con người ấy… Phận đời thái giám đã khiến họ không còn sợ hãi cái chết, nhưng lại sợ chết không toàn thây. Và vị thái giám cuối cùng đã bị dòng thác lịch sử cuốn về với cõi trần ai gió bụi, khi chết vẫn thiếu đi mảnh da thịt tội nghiệp ấy…

Về cuối đời, các thái giám triều Nguyễn phải cư trú ở một ngôi nhà phía Bắc hoàng thành là Cung Giám viện. Họ không được chết ở những chốn linh thiêng như trong Đại nội hoặc trên lăng tẩm. Nhiều người chống đỡ sự tuyệt tự và hoàn cảnh neo đơn của tuổi già bằng cách xin nhận con nuôi để có người nhang khói về sau.

Bởi lo lắng không có chốn khi nằm xuống, bát hương sẽ lạnh trong ngày giỗ nên khi còn sống, nhiều thái giám đã liệu tính cho mình một nơi an nghỉ. Năm 1943, dưới thời vua Thiệu Trị, thái giám Châu Phước Năng đã đứng ra quyên góp tiền trùng tu chùa Từ Hiếu – một ngôi chùa khá nổi tiếng – lấy đó làm chốn an nghỉ. Đến năm 1893, nhiều thái giám dưới ngôi Thành Thái đã cùng đóng góp tiền của để tu sửa lại chùa. Và thành lệ, hàng năm các thái giám đều có phần công đức để sau khi chết, họ được nhà chùa mai tang và cúng giỗ. Từ Hiếu dần trở thành nơi an nghỉ của các thái giám triều Nguyễn (tất nhiên là không phải tất cả đều được chôn tại đây). Tên gọi khác – “Chùa Thái Giám” cũng bởi vậy mà ra.

Nằm cách thành Huế về phía Tây Nam khoảng 7km, chùa Từ Hiếu không thuộc vào hàng đồ sộ và đẹp nhất về kiến trúc ở Cố đô nhưng lại có phong cảnh trầm mặc, u nhã đúng chất phong vị chốn Phật. Tọa lạc trên một vùng đồi núi, trước khi qua cổng tam quan vào chùa thì có một con suối, nước mãi róc rách bốn mùa. Trước suối là một đồi thông như bức bình phong che chắn. Tất cả tạo nên như một bức tranh phong thủy hữu tình.

Và nghĩa trang thái giám

Cách ngôi chính điện của chùa Từ Hiếu khoảng 50m về hướng trái là khu mộ địa của các quan thái giám. Nằm giữa chốn phong thủy ấy nên cũng nhuốm vẻ u buồn. Theo sự khảo sát rất tỉ mỉ của các nhà Huế học: Khu mộ hình chữ nhật với 26,03m chiều dài và 19,05m rộng. Được bao quanh bởi bốn bức tường dày 0,79m; cao 1,78m.


Chùa Từ Hiếu - Huế
Số mộ đếm được trong nghĩa trang này là 25 ngôi, chia thành 3 dãy. Trong đó, 21 ngôi còn nguyên vẹn, có bia khắc tên tuổi, quê quán, pháp danh, chức vụ và ngày mất. Rõ ràng nhất là bia số 22 (ở dãy trong cùng) có khắc: Hoàng triều Cung Giám viện, quảng vụ Nguyễn Hầu, người ở thôn Nhi, xã Hoàng Công, tổng Hoàng Công, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội. Mất ngày 15 tháng Giêng năm Khải Định thứ V (1920). Nhiều bia mộ khác vẫn còn đọc rõ chữ.

Xúc động nhất trong khu nghĩa trang này là tấm bia ký sắc tứ đất chôn mộ nằm ở phía mặt tiền. Bia chỉ cao quá 1m, rộng hơn 0,5m nhưng nội dung có thể khiến người đọc không khỏi xót xa: “Nhân nghĩ rằng nếu không lo kể về sau, khi còn sống thì nương nhờ chốn Phật, mà khi chúng ta chết thì biết nương tựa vào đâu. Nhận thấy ở góc thành phía Tây Nam có một đám đất, lấy gạch xây thành để về sau làm nơi chôn mộ. Ở đó làm một cái am lợp ngói để thường năm thờ cúng, gần nơi của Phật mới là nơi thừa tự lâu dài. Và ngày thường cùng bằng hữu nếu ai ốm đau có chỗ ra vào dưỡng bệnh, khi nằm xuống có chỗ tống táng”.


Mộ Thái Giám trong khuôn viên chùa Từ Hiếu
Sau triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam chỉ còn sót lại ba vị thái giám là giám Đồng, giám Tuần và giám Đề. Giám Đồng – vị thái giám cuối cùng cũng đã mất vào năm 1998 nhưng không được chôn ở chùa Từ Hiếu.

Trần Nguyên Phong
thientam13887
thientam13887
Chủ nhiệm
Chủ nhiệm

Tổng số bài gửi : 575
Join date : 03/03/2011
Age : 37
Đến từ : Hồ Chí Minh City

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết